Các phương pháp vạt tại chỗ có chân nuôi được chỉ định khi mô mềm tại chỗ đủ dày và rộng để kéo che vùng chân răng hở hay nói cách khác là điều trị tụt lợi hở chân răng (lợi tụt khỏi chân răng).
- Phương pháp vạt trượt bên:
Lịch sử: Grupe và Warren (1956) là những người đầu tiên mô tả phương pháp dùng vạt trượt để sửa chữa các tổn thương lợi. Họ mô tả vạt toàn phần trượt bên từ vùng lành sang vùng chân răng hở và che chân răng. Bài viết này chúng tôi không tìm được bản gốc nên chúng tôi trích dẫn lại qua bài của Serge Dibart and Mamdouth Karima .
- Phương pháp vạt xoay chếch:
Phương pháp này do Bahat cải tiến từ phương pháp của Pennel. Đây là biến thể của vạt xoay chéo do Pennel đưa ra năm 1956. Vạt chân nuôi được xoay 90 độ và khâu vào mô liên kết bên dưới .
>>> xem thêm: tut loi co chua duoc khong
- Phương pháp vạt nhú lợi kép:
Năm 1968, Cohen và Ross mô tả phương pháp sử dụng vạt nhú lợi lấy từ hai bên che chân răng và tổn thương ở lợi ở những trường hợp không thể sử dụng vạt trượt bên vì thiếu mô .
- Phương pháp vạt trượt về phía cổ răng:
Bernimoulin năm 1975 là người đầu tiên báo cáo phương pháp ghép lợi tự thân tự do sau đó tiến hành phương pháp vạt trượt về phía cổ răng .
- Phương pháp vạt bán nguyệt:
Phương pháp này có thể dùng với trường hợp tụt lợi từ 1 đến 2mm .
Các phương pháp sử dụng mô ghép tự thân có thể áp dụng cho tất cả các trường hợpbị bệnh tụt lợi.
- Phương pháp ghép lợi tự do tự thân:
Bjorn, Sullivan và Atkins năm 1968 là những người đầu tiên mô tả phẫu thuật ghép lợi tự do tự thân. Vì không tìm được tài liệu nguyên gốc nên chúng tôi trích dẫn qua bài của Serge Dibart .
- Phương pháp ghép mô liên kết dưới biểu mô:
Do Langer B. và Langer L. đưa ra năm 1985 . Hai lợi tự do và phương pháp này kết hợp ưu điểm của phương pháp ghép lợi tự do và phương pháp vạt tại chỗ nên hiệu quả cao, vì vậy chúng tôi chọn phương pháp này để tiến hành đề tài nghiên cứu. Các bước của phẫu thuật được trình bày trong chương 2.
- Phương pháp dùng màng biểu mô đồng loạt không tế bào:
Màng biểu bì đồng loại không tế bào (Acelular dermal matrix allograft ) lúc đầu được nghiên cứu để che phủ vết thương bỏng vào năm 1994, sau đó được ứng dụng trong nha khoa. Màng này lấy từ da người chết, được loại bỏ hết tế bào, chỉ để lại khung bó sợi collagen, sau đó làm đông khô rồi đóng gói .
- Phương pháp tái sinh mô có hướng dẫn (guided tissue regeneration): là phương pháp giúp tái tạo lại phần mô quanh răng đã mất, có thể dùng màng sinh học tiêu hoặc không tiêu , yêu cầu của phương pháp này là mô mềm tại chỗ phải đủ kích thước để che phủ kín màng sinh học.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét